An Liên
Tạp chí “Chính sách Đối ngoại” (Foreign Policy) xuất bản vào cuối tháng 12/2020 đã công bố một báo cáo khảo sát dài về cuộc chiến dữ liệu toàn cầu giữa các cơ quan tình báo của Trung Quốc và Hoa Kỳ trong 10 năm qua. Báo cáo dựa trên các cuộc phỏng vấn sâu rộng với hơn 30 quan chức tình báo và an ninh quốc gia Hoa Kỳ hiện tại và trước đây, theo Epoch Times.
Báo cáo được chia thành ba phần:
– Phần thứ nhất: Trung Quốc đánh cắp dữ liệu để xác định các nhân viên tình báo (điệp viên) Mỹ.
– Phần thứ hai: Các cơ quan tình báo Hoa Kỳ đã đấu tranh như thế nào với sự củng cố quyền lực của Tập Cận Bình trong thời kỳ Obama.
– Phần thứ ba: hoạt động của cơ quan tình báo thời TT Trump và sự hợp tác ngày càng tăng giữa các cơ quan tình báo của ĐCSTQ và các gã khổng lồ công nghệ.
Bài viết này giới thiệu phần thứ nhất, nói về việc Trung Quốc đánh cắp dữ liệu để xác định các nhân viên tình báo Mỹ như thế nào.
Vào khoảng năm 2013, cơ quan tình báo Hoa Kỳ nhận thấy một vấn đề gây chấn động, đó là các nhân viên CIA chìm được cử đến Châu Phi và các nước Châu Âu đã bị cơ quan tình báo ĐCSTQ xác định ra trong một thời gian ngắn. Vậy vấn đề nằm ở đâu? Diễn biến của vụ việc có thể bắt nguồn từ 20 năm trước. Một cựu quan chức an ninh quốc gia cấp cao cho biết, “Hoa Kỳ và Trung Quốc va chạm với nhau trên quy mô toàn cầu. Điều này đã mở ra một chiếc hộp Pandora toàn cầu”.
CIA sử dụng tham nhũng của ĐCSTQ để tuyển dụng điệp viên ở Trung Quốc
Từ năm 2000 đến năm 2010, CIA đã lợi dụng sự tham nhũng trong bộ máy quan liêu của ĐCSTQ để phát triển nhân viên tình báo ở Trung Quốc. Ở Trung Quốc vào năm 2000, lương chính thức của các quan chức ĐCSTQ không cao, có thể dưới 2.000 nhân dân tệ mỗi tháng, nhưng thu nhập từ lương không chính thức của các quan chức đã vượt quá mức lương chính thức rất nhiều. Thời điểm đó, một quan chức không tham gia tham nhũng sẽ bị đồng nghiệp coi là kẻ ngốc. Họ có thể mua bất cứ thứ gì bằng tiền, và CIA có rất nhiều tiền.
CIA trả lương cho các gián viên và người cung cấp thông tin khá hậu hĩnh. Vào những năm 2000, nếu họ là gián điệp cấp cao nhất trong các cơ sở ngoại giao của một số quốc gia (như Trung Quốc, Nga, Iran và Triều Tiên), họ có thể kiếm được một triệu một năm. Loại thù lao này được chi trả theo nhiều hình thức, chẳng hạn như trả tiền học phí và sinh hoạt phí cho con cái của các quan chức đang học đại học ở nước ngoài.
Việc CIA tuyển dụng thành công các điệp viên đã khơi dậy sự cảnh giác của Bắc Kinh. Theo một cựu quan chức CIA cấp cao, “họ (ĐCSTQ) buộc phải nhìn ra vấn đề của chính họ và những sai lầm của chúng tôi đã giúp họ nhìn ra vấn đề của mình”. Ban lãnh đạo của ĐCSTQ nhận ra rằng tham nhũng không được kiểm soát không chỉ là mối đe dọa đối với sự tồn tại của đảng, mà còn là một mối đe dọa về phản gián lớn, tạo cơ hội cho các cơ quan tình báo của đối phương như CIA lợi dụng. Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc lúc bấy giờ là Hồ Cẩm Đào đã nói tại Đại hội Đảng năm 2012: “Nếu chúng ta không giải quyết tốt vấn nạn (tham nhũng), nó có thể … thậm chí dẫn đến sự sụp đổ của đảng và đất nước”.
Cuối năm 2012, Tập Cận Bình công bố chiến dịch chống tham nhũng mới, chiến dịch chống tham nhũng này nhằm củng cố quyền lực nhưng cũng liên quan đến hành động của CIA. Cựu quan chức tình báo Mỹ cho biết, trước cuộc thanh trừng của Tập Cận Bình, tình trạng tham nhũng vặt của Bộ An ninh Quốc gia diễn ra ở khắp mọi nơi. Các điệp viên của ĐCSTQ đôi khi chuyển tiền từ các hoạt động chính thức đến các “tổ chức” riêng của họ; các tin tặc của ĐCSTQ đôi khi làm tội phạm mạng bán thời gian, sau đó chia phần cho ông chủ của cơ quan tình báo. Nhưng với sự thanh trừng của Tập Cận Bình, các hoạt động này ngày càng trở nên khó khăn hơn.
Bắc Kinh nâng cấp mạng lưới chống gián điệp CIA
Năm 2010, ĐCSTQ phát hiện ra rằng mạng lưới CIA tại Hoa Kỳ đang trải rộng khắp trong quân đội, các cơ quan tình báo và những nơi khác. Các quan chức tình báo ĐCSTQ bắt đầu khai thác lỗ hổng trong hệ thống liên lạc bí mật giữa các nhân viên CIA (lỗ hổng lần đầu tiên được phát hiện bởi Iran, và có lẽ Tehran đã nói với Bắc Kinh về điều này). Từ năm 2010 đến năm 2012, mạng lưới CIA ở Trung Quốc đã bị nhổ bỏ một cách tàn nhẫn, ĐCSTQ đã bỏ tù và giết hàng chục người.
Theo hai cựu quan chức CIA, vào khoảng năm 2010, bộ phận an ninh của ĐCSTQ đã xây dựng một kế hoạch tình báo du lịch phức tạp và phát triển cơ sở dữ liệu để theo dõi các chuyến bay và danh sách hành khách. “Chúng tôi đã nghiên cứu rất kỹ lưỡng và (các gián điệp Trung Quốc ) đang tích cực sử dụng kế hoạch này để tiến hành các hoạt động tình báo phản gián và tấn công”. Để chắc chắn, ĐCSTQ đã đánh cắp một lượng lớn dữ liệu trước khi phát hiện ra hành động của các cơ quan tình báo Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, tình trạng hỗn loạn từ năm 2010 đến năm 2012 đã tạo động lực cho Bắc Kinh theo đuổi các mục tiêu lớn hơn và rủi ro hơn, đồng thời tích hợp cơ sở hạ tầng xử lý lượng lớn thông tin bị đánh cắp. Đó là lúc các cơ quan tình báo của ĐCSTQ chuyển từ việc chỉ đánh cắp một lượng lớn dữ liệu sang nhanh chóng sàng lọc thông tin hữu ích từ dữ liệu. Các quan chức Hoa Kỳ cũng nhận thấy rằng hầu hết các cơ sở tình báo của ĐCSTQ đều nằm gần các trung tâm xử lý dữ liệu và ngôn ngữ. Chính những khả năng mới này đã cho phép ĐCSTQ xâm nhập thành công vào Văn phòng Quản lý Nhân sự (OPM) của Mỹ và gây ra một tác động khủng khiếp.
Nhân viên CIA được cử đến châu Phi và châu Âu nhanh chóng bị dò ra danh tính
Vào khoảng năm 2013, cơ quan tình báo Hoa Kỳ nhận thấy một vấn đề gây chấn động. Các nhân viên CIA bí mật được cử đến châu Phi và các nước châu Âu đã bị cơ quan tình báo của ĐCSTQ xác định trong một khoảng thời gian ngắn. Đôi khi các điệp viên CIA bị đặc vụ của ĐCSTQ giám sát ngay sau khi họ vượt qua vòng kiểm soát hộ chiếu. Thậm chí, hành vi giám sát của ĐCSTQ diễn ra công khai và không bị che giấu. Có vẻ như họ muốn Mỹ biết rằng họ đã xác định được danh tính của điệp viên CIA.
Sự bất thường này nhanh chóng cảnh báo các nhà lãnh đạo hàng đầu của Hoa Kỳ. Một cựu quan chức tình báo cho biết, “Người Trung Quốc (ĐCSTQ) không bao giờ được biết danh tính và vị trí của điệp viên chìm”. Nhưng làm thế nào ĐCSTQ lấy được tin tức từ những nhân viên tình báo này, chúng tôi đã rất khó hiểu.
Trong những năm trước, CIA có khả năng tìm kiếm nội gián, nhưng giờ họ cho rằng điều này có khả năng liên quan đến hoạt động gián điệp mạng của ĐCSTQ, cụ thể là nó liên quan đến cuộc xâm nhập thành công của ĐCSTQ vào Văn phòng Quản lý Nhân sự Hoa Kỳ (OPM). Trong cuộc xâm nhập, tin tặc Trung Quốc đã đánh cắp thông tin cá nhân chi tiết của 21,5 triệu quan chức Mỹ hiện tại và trước đây, cùng vợ/chồng của họ, và những người xin việc, bao gồm sức khỏe, cư trú, việc làm, dấu vân tay và dữ liệu tài chính. Thông tin chi tiết về quá trình kiểm tra lý lịch an ninh của một số người cũng đã bị đánh cắp. Những cuộc điều tra này có thể cung cấp thông tin chi tiết về hồ sơ sức khỏe tâm thần, tiền sử tình dục và sở thích của cá nhân và liệu người thân ở nước ngoài của một người có thể bị chính phủ tống tiền hay không. Mặc dù Hoa Kỳ đã không tiết lộ lỗ hổng này cho đến năm 2015, nhưng các quan chức tình báo Hoa Kỳ đã biết về việc xâm nhập OPM ban đầu vào năm 2012.
Các quan chức tình báo nói rằng khi so sánh với các chi tiết du lịch và các dữ liệu bị đánh cắp khác, thông tin trong OPM có khả năng cung cấp cho cơ quan tình báo của ĐCSTQ thông tin về các kiểu hành vi bất thường, các manh mối chắc chắn về sơ yếu lý lịch cá nhân hoặc kinh nghiệm làm việc. Những manh mối này đánh dấu các cá nhân có thể là điệp viên Hoa Kỳ. Cựu nhà phân tích Trung Quốc của CIA, Gail Helt nhớ lại phản ứng của mình trước cuộc xâm nhập vào OPM là: “Ôi trời ơi, điều này có ý nghĩa gì với những ai đã từng đến Trung Quốc? Đối với những người chúng tôi chính thức tuyển dụng, điều này có ý nghĩa gì đối với những người chúng ta nói chuyện và gia đình của họ? Và điều này có ý nghĩa như thế nào đối với công tác tuyển dụng của các tổ chức trong tương lai? Điều này thật tồi tệ. Nó thật khủng khiếp”.
Douglas Wise, người từng là Phó Giám đốc Cơ quan Tình báo Quốc phòng Quốc gia, bày tỏ quan ngại sâu sắc khiến toàn bộ cộng đồng tình báo phải tiến hành đánh giá thiệt hại xung quanh vụ việc OPM và các sự cố xâm nhập khác. Một số người lo lắng rằng ĐCSTQ đã nắm vững các yêu cầu và quy trình của chính phủ Hoa Kỳ khi tuyển dụng các vị trí nhạy cảm, ĐCSTQ có thể sàng lọc dữ liệu của OPM, điều chỉnh các hồ sơ cá nhân lý tưởng và cài gián điệp của ĐCSTQ vào chính phủ Hoa Kỳ.
Việc nghiên cứu dữ liệu của OPM đã mang lại cho ĐCSTQ cái nhìn sâu sắc chưa từng có về hệ thống hoạt động của điệp viên Hoa Kỳ. Cùng lúc đó, mạng lưới điệp viên Trung Quốc do CIA thiết lập cẩn thận đã bị phá hủy hoàn toàn. Khi Hoa Kỳ đối phó với ĐCSTQ, dường như họ đã nhắm một mắt lại, điều này khiến chính phủ Hoa Kỳ ngày càng mâu thuẫn về cách đối phó với ĐCSTQ.